Di các nhịp trống trong nhạc lễ Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ. Tác giải: Đại đức, TS. Thích Nguyên Toàn.
Tóm tắt:
Trong âm nhạc nghi lễ Phật giáo ở vùng châu thổ Bắc bộ, ngoài hệ thống bài bản nhạc hát thì nhịp trống là một trong những yếu tố tạo nên đặc trưng trong âm nhạc của tôn giáo này. Nhịp trống có một vị trí quan trọng trong việc kết nối và phân chia từng bước lễ trong trong một đàn lễ; nhịp trống cũng là phương tiện quan trọng để các sư tăng thực hiện giữ nhịp, dẫn dắt và cũng là điểm tựa cho một số hình thức âm nhạc khác trong nghi lễ Phật giáo. Nhịp trống trong âm nhạc nghi lễ Phật giáo còn có vị trí quan trọng trong sự định hình và phát triển nghệ thuật tiết tấu nói riêng, các khổ phách và nhạc đàn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam nói chung. Tham luận này cũng xin kiến nghị những vấn đề cấp bách về việc cần thiết trình UNESCO ghi danh nghệ thuật âm nhạc Phật giáo của Việt Nam thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Ngày 01 và 02 tháng 07 năm 2022 tại Thành phố Hải Phòng, Ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN phối hợp với BTS GHPGVN Thành phố tổ chức Hội thảo Nghi lễ Phật giáo toàn quốc năm 2022. Với chủ đề “Kế thừa, bảo tồn và phát huy truyền thống Nghi lễ Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”, hội thảo nhận được nhiều ý kiến quý báu của chư tôn đức Giáo phẩm và quý đại biểu trong việc kế thừa – bảo tồn và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần vào sự nghiệp phát triển bền vững của Giáo hội.
Từ khóa: Nhạc lễ Phật giáo; Nhịp trống; Đặc trưng; Âm nhạc truyền thống Việt Nam; Châu thổ Bắc bộ.
1. Giới thiệu:
- Diện mạo âm nhạc nghi lễ Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam gồm các bộ phận cấu thành chính là: 1) Nhạc hát, tập trung ở Tán Canh; 2) Tổ chức khí nhạc và 3) Các nhịp trống.
- Thứ nhất, trong nhạc hát của âm nhạc nghi lễ Phật giáo miền Bắc hiện nay có thể chia làm ba nhóm chính ứng với những đặc điểm chung về nội dung tư tưởng và một số khía cạnh về chức năng. Đó là các thể Tán, Tụng, Niệm; các thể loại Thỉnh, Than (Thỉnh Phật, Thánh và Than cô hồn); và nhóm gắn với các thể loại đọc (Sớ, Điệp, Trạng, Phó ý). Trong đó, chúng ta lại chia ra làm: i) Nhóm gắn với những thể loại và hình thức Tụng, Tán, Niệm giáo lý và danh hiệu Phật; ii) Nhóm những bài Thỉnh chư Phật thánh và Than cô hồn ; iii) Nhóm những bài liên quan đến câu đọc, ngâm. Ở đây đáng chú ý là những bài đọc Sớ, Điệp, Trạng, Phó ý.
- Trong các thể loại và hình thức nhạc hát Phật giáo trên đây, Tán Canh nổi lên như một hiện tượng âm nhạc độc đáo không chỉ trong nhạc lễ Phật giáo mà trong nền âm nhạc truyền thống Việt Nam. Tán Canh đã phát triển tròn trịa của một thể loại âm nhạc bác học với sự ổn định về quy luật âm luật, cách thức trình tấu và nguyên tắc cơ bản khi thực hiện thể loại này. Có thể khẳng định, Tán Canh trong âm nhạc nghi lễ Phật giáomiền Bắc Việt Nam chính là một sự sáng tạo đỉnh cao, là một đặc trưng trong âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam, đóng góp cho nền âm nhạc truyền thống Việt Nam (tác giả sẽ phân tích sâu hơn ở phần Đặc trưng). Hiện tại ở miền Bắc Việt Nam, Canh được chia làm ba vùng canh lớn là Canh Đông, Canh Nam và Canh Hà Nội. 13 bài bản Tán Canh trong âm nhạc Phật giáo được xem như những thể loại âm nhạc đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp, bác học, sánh ngang với Ca trù, hát Chèo và nhiều thế loại âm nhạc chuyên nghiệp truyền thống của dân tộc.
- Thứ hai, tổ chức khí nhạc, chúng tôi chia ra thành những bộ phận chính gắn với những đặc điểm riêng. Ở đây, chúng tôi lại chia thành: a) Nhóm nhạc khí gắn với quá trình tu tập của người xuất gia. Ở đây chủ yếu là nhóm thân vang, gồm ba bộ phận; b) Nhóm nhạc cụ gắn với nghi lễ ứng phó đạo tràng (ở đây là nghi lễ Trai đàn chẩn tế). Trong không gian này, bên cạnh một số nhạc cụ ở nhóm 1, còn sử dụng ba họ nhạc cụ khác: Họ tự thân vang có Thanh la, Não bạt và Tiu – Cảnh; Họ màng rung có trống lớn và trống bản (mỗi thứ một chiếc); Họ dây có Nhị; và họ hơi có kèn Sô na (còn gọi là Già nam lam). Đây là những nhạc cụ được sử dụng phổ biến trong nghi lễ Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam, được ghi nhận trong tư liệu lịch sử nhiều thế kỷ trước.
- Thứ ba, nhạc đàn – nhịp trống. Cùng với Tán Canh (và nghệ thuật Múa trong các khoa nghi), thì các nhịp trống trong âm nhạc Phật giáo chính là đặc sản vô giá trong kho tàng âm nhạc nghi lễ Phật giáo của miền Bắc nói riêng, âm nhạc truyền thống Việt Nam nói chung. Những nghiên cứu trước đây chúng tôi đã ít nhiều đề cập đến nhạc hát và múa của Phật giáo, trong báo cáo này xin phép tập trung chủ yếu giới thiệu những nét đặc sắc của Nhịp trống.
- Việt Nam là một trong những cái nôi của trống đồng lớn của thế giới, trong đó Đông Sơn và Ngọc Lũ là hai địa danh được giới khảo cổ học quốc tế và trong nước đánh giá là nơi phát tích những chiếc trống đồng hội tụ đầy đủ giá trị đáng chú ý cả về mặt lịch sử, nghệ thuật, mỹ thuật cũng như nền văn minh của khu vực châu Á.
- Cũng ở phương diện cổ sử, Việt Nam cũng là một trong những cái nôi cổ xưa của cũng các nhạc khí thân vang – đàn đá, nhạc cụ màng rung – trống hai mặt da. Những bộ đàn đá tìm được ở miền Trung và Tây Nguyên; những chiếc trống được tìm thấy trong các nghi lễ tốn giáo mang dấu ấn cổ xưa là minh chứng sống động cho thấy Việt Nam có lịch sử định hình và phát triển âm nhạc nói chung, các nhạc khí thân vang, mặt da nói riêng từ lâu đời. Những thế kỷ sau đó, các nhạc cụ này tiếp tục có vị trí quan trọng của nó trong đời sống của con người, đặc biệt là những chiếc trống. Trống không chỉ tham gia vào quá trình làm hiệu lệnh để kêu gọi mọi người mỗi dịp vỡ đê, lũ lụt và chữa cháy của nhân dân mà trống còn tham gia vào “hiệu triệu” các chiến sĩ xông lên đánh đuổi bè lũ ngoại bang xâm lược nước ta, giành lại nền độc lập, tự chủ, bảo vệ Tổ quốc. Nhịp trống còn tham gia vào các cuộc thi để thôi thúc các đối thủ nâng cao tinh thần để chiến thắng trong tình yêu thương, nhân văn của cộng đồng. Và, khi con người trở về với cát bụi, trống là một trong những nhạc cụ đặc biệt quan trọng để đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhịp trống, vì thế, hình thành từ đó và có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người Việt Nam.
- Khi du nhập vào Việt Nam, ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên, Phật giáo đã rất coi trọng những yếu tố bản địa, những thế mạnh bản địa để đưa tinh thần của đạo Phật sinh sôi, nảy nở trong nhân dân. Từ trong nghi lễ Phật giáo, các sư tăng và Phật tử đã biết tạo tác ra những thể loại âm nhạc Phật giáo vừa truyền thống, vừa mang đặc trưng riêng trên cơ sở nền âm nhạc dân gian truyền thống phối hợp với giáo lý của Nhà Phật. Các nhịp trống được thực hành trong đời sống sinh hoạt Phật giáo cho đến nay chính là quá trình sáng tạo, lưu truyền và phổ biến đầy sáng tạo, trách nhiệm của Phật tử Việt Nam.
- Sau này, trong nghi lễ Phật giáo ở vùng Châu thổ Bắc bộ, bên cạnh ba yếu tố Thiền, Tịnh, Mật đồng tu còn có sự hoà nhập với Nho, Đạo giáo và văn hóa, tín ngưỡng bản địa. Những yếu tố này hội tụ và thể hiện rõ trong nghi lễ Trai đàn chẩn tế, nơi hộ tụ đa sắc thái, đặc trưng của âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam.
- Từ đặc điểm chung về vị trí địa lý, văn hóa vùng và quá trình truyền thừa của Phật giáo đã tác động góp phần không nhỏ tới sự hình thành sắc thái âm nhạc Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ. Mà sự ra đời của các nhịp trống, từ tên gọi cho đến đặc điểm âm nhạc đều cho thấy những giá trị nội dung và nghệ thuật của nó vượt thời gian để đứng vững và trở thành di sản văn hóa nghệ thuật Phật giáo góp phần quan trọng vào bức tranh văn hóa, nghệ thuật truyền thống nước nhà.
2. Tên gọi, đặc điểm và ý nghĩa sử dụng.
2.1. Tên gọi nhịp trống.
- Nhịp trống gắn liền với trống và một số nhạc cụ bổ trợ khác. Nhịp trống được sử dụng trong toàn bộ các nghi lễ Phật giáo gồm: 1)Trống lễ, 2)Trống thượng đường, 3)Trống phát lôi, 4)Trống sai, 5) Trống hóa sớ và 6) Trống dẫn lục cúng. Trong các nhịp trống này, cũng như ở thành phần nhạc hát và tổ chức khí nhạc, chúng tôi phát hiện chúng có chức năng tương đối của nó.
- Sáu nhịp trống này có thể chia làm ba nhóm như sau: các nhịp trống đánh một cách độc lập; các nhịp trống đệm cùng Tiu – Cảnh trong Tán Canh; và nhịp trống Chạy đàn, Dâng Lục cúng.
- Ở trường hợp thứ nhất, các khóa lễ, trước khi bước vào đàn lễ bao giờ các sư tăng và cư sĩ cũng phải trình tấu ba hồi nhịp trống lễ hoặc trống thượng đường, sau đó vào điểm hồi chuông rồi mới vào một khóa lễ cụ thể. Ở trường hợp thứ hai, trong tán Canh, bên cạnh việc sử dụng cặp nhạc cụ đặc trưng là tiu-cảnh, sư tăng và các cư sĩ, Phật tử còn sử dụng hầu hết các nhạc cụ hiện có để tham gia vào đệm cho tán Canh.
Ví dụ 1: Khổ nhịp trong Tán Canh
- Ở trường hợp thứ ba là các nhịp trống gắn liền với chức năng nghi lễ, giúp sư tăng thực hiện múa chạy đàn, cắt kết. Ở đây, đáng chú ý là nhịp trống Dẫn lục cúng, là sự phối hợp các nhịp trống như trống phát lôi, trống sai và trống lễ. Đây cũng là những nhịp trống chính đệm cho các sư tăng thực hiện lễ thức dâng lục cúng và chạy đàn, cắt kết. Các nhịp trống vùng này chủ yếu được sử dụng trong nghi lễ ứng phó đạo tràng, cụ thể là nghi lễ Trai đàn chẩn tế, ít dùng trong nghi lễ Thường nhật. Trống và các nhịp trống có chức năng khá quan trọng, không chỉ là “phần mở đầu” của nghi lễ mà còn đóng vai trò và vị trí như những “đoạn chen”, lưu không, giúp gắn kết các phần lễ lại với nhau trong suốt quá trình thực hành nghi lễ.
- Điều đó giúp cho nghi lễ Phật giáo ở vùng ở Châu thổ Bắc bộ mang một sắc thái riêng, vừa uy nghi, thiêng liêng, nhưng lại vừa chứa đựng những yếu tố truyền thống quen thuộc với người dân bản địa.
- Nghi lễ Phật giáo Việt Nam, ngoài việc thể hiện tư tưởng chính trong giáo lý, kinh sách còn mang những đặc thù riêng như: tác động sâu sắc đến văn hoá làng xã, ảnh hưởng sâu đậm đến tính chất vùng miền và tông phái.Điều đó đã giúp âm nhạc nghi lễ Phật giáo ở miền Bắc nói chung, các thể loại Tán canh và Nhịp trống nói riêng có những khác biệt tương đối ngay trong từng tiểu vùng của khu vực này.
1.2. Đặc điểm cơ bản
- Âm nhạc Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ sử dụng một số nhịp trống không có ở ngoài trong dân gian. Đó là các loại nhịp: 1) trống Thượng đường (khu vực Nam bộ gọi là Bát nhã), 2) trống Sai, 3) trống Canh, 4) trống Dẫn lục cúng, 5) trống Phát lôi và 6) trống Hóa sớ. Theo đó, các nhịp trống này có thể chia làm thành hai nhóm: nhóm mở đầu và kết thúc một bước lễ và nhóm gắn với quá trình thực hành lễ.
- Nhóm thứ nhất có hai nhịp Thượng đường và Phát lôi. Trong đó, trống Thượng đường chỉ sử dụng khi mở đầu cho buổi lễ và chỉ đánh cùng với chuông lớn (chuông Hồng chung). Mục đích là để tạo nên sự trang nghiêm củađạo tràng, thỉnh mời chư vị Phật thánh và thanh tẩy thân tâm trước khi vào đàn lễ.
- Đặc điểm căn bản của nhịp trống này là đánh theo hồi đuổi. Trong các nghi lễ thực hiện ba hồi Thượng đường, theo nguyên tắc chuông – trống – chuông với nhịp độ tăng dần đến dồn trống với nhịp độ nhanh. Cách đánh này có điểm tương đồng với nhịp trống tế lễ ở đình làng vùng châu thổ Bắc bộ, đánh trống – chiêng trước khi vào tế lễ Thành hoàng làng. Hiện nay, chúng tôi chưa tìm được tư liệu ghi nhận nhịp trống này bắt nguồn từ trong chùa hay trong cung đình, nhưng có lẽ đây là những nhịp trống có nguồn gốc Phật giáo gắn với văn hóa làng xã của cư dân trồng lúa nước của người Việt, đồng thời cũng là kết quả của quá trình giao lưu văn hóa tư tưởng giữa Phật giáo và Nho giáo thông qua ngôi đình và ngôi chùa làng dưới thời Nhà Lê.
- Nhịp trống Phát lôi được sử dụng trong hầu hết các phần mở đầu và kết thúc các bước lễ. Nếu như coi cả một bước lễ là một liên khúc diễn xướng thì trống Phát lôi được coi như đoạn lưu không liên kết các nghi thức đó lại với nhau.
- Nhóm thứ hai gồm các nhịp còn lại: trống Sai, Dẫn lục cúng, trống Canh và Hóa sớ. Như trên đã nói, các nhịp trống này được sử dụng trong khi thực hiện các nghi thức cụ thể. Có thể khái quát thành hai trường hợp cụ thể.
- Trường hợp thứ nhất đánh độc lập, có nghĩa là trống Hóa sớ sử dụng trong quá trình hóa sớ cùng với đọc một số câu chân ngôn; trống Canh dùng khi tán Canh, tòng theo nhịp chính của Tiu – Cảnh; v.v…
- Trường hợp thứ hai sử dụng hỗn hợp, nghĩa là có thể sử dụng hai hoặc ba nhịp trống luân phiên trong một nghi thức. Hiện tượng này thấy rất rõ trong hai nghi thức chạy đàn – cắt kết và múa dẫn lục cúng. Ở đây, ngoài sử dụng nhịp trống chính là Dẫn lục cúng, sẽ sử dụng luân phiên hai nhịp trống là trống Sai, trống Hóa sớ (cá biệt có trường hợp sử dụng trống Phát lôi).
- Như vậy, các nhịp trống có vai trò và vị trí quan trọng mang chức năng cụ thể trong diễn xướng nghi lễ Phật giáo. Một số nhịp trống không chỉ được sử dụng theo trình tự và không gian riêng mà nhiều trong đó còn đượcsử dụng luân phiên, phối hợp với nhau tạo thành một thể “liên khúc” khá phong phú và độc đáo. Điều này dẫn đến một số đặc điểm riêng, chung so với nhịp trống sử dụngcủa dân gian.
- Các nhịp trống trong nghi lễ Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ mặc dù mang những đặc trưng riêng nhưng thống nhất trong đa dạng so với âm nhạc truyền thống ở châu thổ Bắc bộ và Phật giáo ở một số địa phương ở châu thổ Bắc bộ. Điều này thể hiện trên các khía cạnh:
- Thứ nhất, giữa các nhịp trống sử dụng trong nghi lễ Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ và một số nhịp trống sử dụng ngoài dân gian đều có một số đặc điểm chung về chức năng. Trước hết, chúng tôi ghi nhận chức năng thông báo, mở đầu của buổi lễ. Trường hợp này dễ dàng nhận thấy trong tất cả các nghi lễ Phật giáo, đặc biệt là các nghi lễ ứng phó đạo tràng. Ở ngoài dân gian, chúng tôi ghi nhận có trường hợp nhịp trống trong mở đầu tang lễ và nhịp trống trong tế lễ Thành hoàng làng.
- Thứ hai, cả nhịp trống sử dụng trong nghi lễ Phật giáo và một số nhịp trống ngoài dân gian không chỉ tham gia thông báo, mở đầu hay kết thúc một nghi lễ, diễn xướng mà còn thể hiện chức năng trực tiếp tham gia điều khiển nghi lễ. Trong nghi lễ Phật giáo, hiện tượng này chúng tôi ghi nhận trong đàn giải oan – cắt kết, chạy đàn – phá ngục và múa dẫn lục cúng; ở âm nhạc tế lễ Thành hoàng làng là quá trình trống tham gia trực tiếp vào quá trình tế, lễ và rước Thành hoàng làng, là một bộ phận không thể tách rời thể loại âm nhạc; tương tự như âm nhạc tang lễ và trong nhiều thể loại âm nhạc dân gian truyền thống khác.
- Thứ ba, nhịp trống là một bộ phận tạo nên đặc trưng của từng thể loại nhịp. Ở trường hợp âm nhạc Phật giáo, nhịp trống là một trong những yếu tố tạo nên đặc trưng của phong cách âm nhạc, như ở trường hợp nhịp trống Canh, trống Sai khi đọc cáo, hịch, hay trống tạo đặc trưng trong múa ở đàn ngục, đàn kết và múa dâng lục cúng.
- Xét về đặc điểm âm hình tiết tấu, ở đây trong sự so sánh với nhịp trống trong âm nhạc Phật giáo ở Thái Bình, nhịp trống Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ không chỉ thể hiện qua tên gọi mà thể hiện ngay trong đặc điểm tiết tấu của các nhịp trống.
- Tất cả các nhịp trống trên, trống lớn có vai trò đi tiết tấu chính. Trong quá trình diễn tấu các nhịp trống, toàn bộ các nhạc cụ được biên chế trong dàn nhạc được sử dụng, phát huy những đặc điểm âm thanh riêng của từng nhạc khí. Tuy nhiên, trống lớn có vai trò quyết định đi tiết tấu chính. Các nhạc cụ còn lại, trừ chuông và mõ có vai trò giữ nhịp độ, cũng hòa cùng theo âm hình của trống lớn. Điều này thể hiện trên hai nguyên tắc cụ thể: 1) Các nhạc cụ chuông, mõ thực hiện vai trò giữ nhịp, điểm trì tục; 2) Các nhạc cụ Thanh la, Não bạt, Tiu-Cảnh thực hiện vai trò điểm xuyến theo tiết tấu móc đơn hoặc những tiết tấu phức tạp khác khi rung, va đập. Trong các nhịp trống, không có sự tham gia của nhạc cụ dây và hơi. Như vậy, căn cứ vào tên gọi cổ truyền của các cụ cùng với quá trình quan sát, nghiên cứu trực tiếp cho thấy, nhịp trống gắn liền và quy định bởi vai trò của trống rất lớn.
- Ngoài ba thành phần căn bản trên, âm nhạc trong nghi lễ Phật giáo còn gắn với một loại hình nghệ thuật độc đáo nữa là “múa”. Gọi là múa vì toàn bộ các ấn quyết và bước di chuyển có nguyên tắc đã được múa hóa với các động tác uyển chuyển linh hoạt rất độc đáo. Có thể không cho đó là múa vì tác thể guộn tay, bắt ấn quyết không được phép sáng tạo, thêm bớt tùy tiện, là “ngôn ngữ” riêng của Phật giáo Mật tông và Tịnh độ. Và trong toàn bộ quá trình múa này thì vai trò của các nhịp trống là thực sự quan trọng, dẫn dắt người múa – hành lễ.
2.3. Ý nghĩa sử dụng
- Từ nghiên cứu thực tiễn, chúng tôi khái quát những đặc trưng cơ bản trong khí nhạc Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ qua một số khía cạnh dưới đây.
- Thứ nhất, khí nhạc Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ sử dụng theo nguyên tắc cặp đôi. Ở đây, chúng tôi phát hiện phần lớn các nhạc khí được sử dụng theo nguyên tắc này và có quan hệ hữu cơ với nhau. Đó là chuông Hồng chung đi với trống lớn, chuông Gia trì đi với mõ (hoặc mộc bảng), Tiu đi với Cảnh, Thanh la đi với Não bạt v.v…
- Ở trường hợp chuông – trống, trong các đàn lễ hoặc ngày diễn ra nghi lễ chính của chùa, các sư tăng thường sử dụng cặp nhạc khí này để thỉnh nhịp/hồi Bát nhã – thượng đường. Trong nghi lễ Thường nhật, vào buổi chiều, những chùa có gác chuông và trống riêng cũng thường sử dụng hai khí nhạc này điểm theo hồi đuổi với trường độ từ dài đến ngắn và ngắt – đổ hồi.
- Ở trường hợp chuông đi với mõ thì diễn ra phổ biến trong hầu hết các đàn lễ, đặc biệt là các nghi thức tụng kinh. Ngoài đi với mõ như một cặp không thể tách rời, chuông còn được sử dụng cùng với mộc bảng khi báo chúng vào thời thứ nhất – buổi sáng của nghi lễ Thường nhật và các ngày lễ lớn khác.
- Ở trường hợp Tiu và Cảnh, có thể thấy rõ nhất trong tán Canh. Tán Canh Châu thổ Bắc bộ không thể không có Tiu-Cảnh: “Thi Tiu – Cảnh bất thành tán Canh”. Hai khí nhạc này chính là một trong những yếu tố tạo nên đặc trưng trong phong cách Canh Châu thổ Bắc bộ.
- Ở trường hợp Thanh la đi với Não bạt, cũng như các trường hợp trên, hai khí nhạc này luôn đi với nhau trong hầu hết các nghi lễ ứng phó đạo tràng, đặc biệt trong nghi lễ Trai đàn chẩn tế. Cùng với các nhạc khí có mặt trong nghi lễ, Thanh la – Não bạt góp phần quan trọng tạo âm thanh uy nghi và trang nghiêm đạo tràng. Cần phải nói thêm rằng, ngoài Não bạt đi với Thanh là thì nhiều trường hợp nhạc khí này còn đi với Trống lớn.
- Từ nguyên tắc này dẫn đến hiện tượng, người ngồi diễn tấu cũng theo nguyên tắc Tả – Hữu song song. Tổ chức khí nhạc trong âm nhạc Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ, trường hợp lễ Trai đàn chẩn tế, được sắp xếp theo nguyên tắc hai dây Tả – Hữu.
- Như vậy, nguyên tắc cặp đôi là một trong những hiện tượng phổ biến trong sử dụng khí nhạc Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ, tạo thành một đặc trưng riêng tương đối thống nhất và ổn định. Có lẽ đây chính là một trong những biểu hiện của triết lý vô thường, tuy hai mà một, có mà không và ngược lại trong triết học Phật giáo?!
- Thứ hai, nhạc khí Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ diễn tả thế giới quan Phật giáo. Điều này thể hiện trên các khía cạnh:
- Một là, các con số trong thực hành khí nhạc. Theo nhiều người xuất gia ở Châu thổ Bắc bộ nói riêng, vùng châu thổ Bắc bộ nói chung, ở chuông Hồng chung, một nguyên tắc căn bản là khi điểm phải thực hiện 108 tiếng. Các công trình nghiên cứu về những pháp số Phật giáo cũng đã cho biết điều này. Con số này tượng trưng cho tinh thần xả bỏ mọi phiền não và cảnh tỉnh chúng sinh trong lục giới. Phật giáo quan niệm lục căn và lục trần; Phật giáo còn có hai trạng thái đối lập nhau trong tâm là Nhiễm và Thanh tịnh cùng với ba trạng thái của cảm giác gọi là Thọ nói nên sự ưa, không ưa hay trung lập; còn một quan niệm rất quan trọng khác gắn với Tam thế Phật: quá khứ, hiện tại và vị lai.
- Tất cả những con số này quan hệ hữu cơ với nhau và trở thành một “công thức” bất biến trong tâm thức người tu hành, đó là sự xuất hiện của các con số đơn lẻ trong quan hệ nhân quả với con số 108. Vì vậy, hòa cùng với biểu tượng của âm thanh là biểu tượng của con số gắn với thế giới quan, nhân sinh quan trong triết học Phật giáo. Bởi vậy mà người xuất gia tu hành phải thường xuyên xả bỏ phiền não qua hoạt động hàng ngày, trong đó có thỉnh chuông và lần tràng hạt – con số 108 tràng hạt.
- Con số còn được thể hiện trong nguyên tắc điểm chuông, mõ. Ba hồi chuông tượng trưng cho tinh thần diệt trừ khỏi tham – sân – si; ba tiếng mõ mở đầu tụng kinh tượng trưng cho tinh thần luôn luôn thức tỉnh để tu trì, giữ giới đạt giác ngộ của người xuất gia v.v…
- Hai là, tên gọi và hình thức của khí nhạc Phật giáo. Các khái niệm chỉ tên gọi cho khí nhạc Phật giáo như “hồng chung”, “gia trì”, “mõ cá”, chỉ có trong Phật giáo và gắn ý nghĩa, triết lý đạo Phật.
- Ba là, trong nguyên tắc diễn tấu. Tiếng chuông và tiếng mõ là hai khí nhạc/ pháp khí tượng trưng cho triết lý Phật giáo với tinh thần “duyệt chúng”, báo chúng và dẫn dắt chúng sinh đi trên con đường diệt trừ vô mình mà giác ngộ. Vì vậy, trong toàn bộ các nghi lễ Phật giáo, hai khí nhạc này gắn với Pháp chủ và luôn ở vị trí làm hiệu lệnh cho các diễn xướng trong nghi lễ.
- Thứ ba, khí nhạc Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ thể hiện sự hỗn dung. Điều này thể hiện rõ nhất qua các nhạc khí vốn có nguồn gốc từ trong chùa và một số nhạc khí du nhập từ dân gian đã được “Phật” hóa để sử dụng phổ biến, ổn định trong nghi lễ Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ từ trước đến nay. Đó là toàn bộ những nhạc khí đã trình bày ở phần diện mạo. Đây cũng là một trong những hiện tượng phản ánh tinh thần, triết lý của Phật giáo. Đó là triết lý vô thường, vô ngã – vô chấp của Phật giáo du nhập vào các nền văn hóa khác nhau, vì con người ở mọi hoàn cảnh, không gian và thời gian khác nhau.
- Như vậy, khí nhạc xuất hiện trong nghi lễ Phật giáo không chỉ với tư cách là hiện tượng âm nhạc thuần túy mà còn thể hiện rõ tinh thần và triết lý Phật giáo. Việc tổ chức, sử dụng khí nhạc Phật giáo đều có nguyên tắc và ý nghĩa nhất định xuất phát từ chính trong tư tưởng của tôn giáo này.
3. Kết luận và kiến nghị.
- Có thể nói, trong truyền thống âm nhạc Phật giáo ở vùng châu thổ Bắc bộ, đậm đặc nhất là ở Hà Nội và vùng phụ cận, cho đến thời điểm hiện tại còn bảo lưu những nhịp trống cổ truyền đã được định hình, thực hành và duy trì trong các ngôi chùa, tổ đình, sơn môn pháp phái ở vùng này nhiều thế kỷ qua. Những ghi chép từ trong chính sử cùng với nhiều tư liệu khảo cổ và mỹ thuật đã cho thấy sức ảnh hưởng và diện mạo của âm nhạc được phản ánh khá đậm đặc trong đời sống sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân gắn với ngôi chùa ở Châu thổ Bắc bộ và những vùng phụ cận. Nhịp trống trong nghi lễ Phật giáo không chỉ thể hiện sự độc đáo về thể loại mà còn mở ra hướng nghiên cứu quan trọng để xác định tầm quan trọng của nhịp trống trong âm nhạc Phật giáo nói riêng, trống và nhịp trống trong văn hóa và lịch sử Việt Nam nói chung. Với hàng nghìn năm du nhập và phát triển, nghi lễ Phật giáo, trên cơ sở của hỗn dung văn hóa bản địa và một số tôn giáo khác, đã định hình và phát triển nhiều hình thức nghi lễ phù hợp với văn hóa, tâm thức của Phật tử, tín đồ Việt Nam.
- Tiếp nối dòng chảy của lịch sử, diện mạo âm nhạc Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ ngày nay được xác định dựatrên ba thành phần chính là nhạc hát, tổ chức các nhạc khí và “nhạc đàn” – các nhịp trống. Những bộ phận này có quan hệ hữu cơ và liên kết với nhau, hỗ trợ nhau trong mỗi không gian và quá trình thực hành nghi lễ, tạo thành một tổng thể thống nhất, một diện mạo mang đặc trưng, sắc thái riêng. Đó là cơ sở quan trọng để luận án đi sâu nghiên cứu những khía cạnh, đặc trưng cơ bản của âm nhạc Phật giáo ở Châu thổ Bắc bộ trong mối tương quan với âm nhạc trong nghi lễ Phật giáo và âm nhạc truyền thống vùng châu thổ Bắc bộ. Âm nhạc Phật giáo sinh ra từ trong nghi lễ Phật giáo, trong đó có nhịp trống, được đánh giá là một trong những cơ sở quan trọng góp phần định hình những nét đặc trưng trong âm nhạc nghi lễ Phật giáo nói riêng, âm nhạc truyền thống Việt Nam nói chung. Cũng từ lịch sử du nhập và phát triển của Phật giáo, vấn đề đánh giá vị trí và vai trò của nghệ thuật trống, từ trống đồng, cồng chiêng trong mối quan hệ với nghệ thuật diễn xướng cồng, chiêng trống và nhạc đàn truyền thống ở Việt Nam trong quan hệ với âm nhạc tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có nhạc lễ Phật giáo, các nhịp trống là một trong những vấn đề đặt ra cho những hướng nghiên cứu tiếp theo trong thời gian tới.
Nhân đây con xip kiến nghị như thế này:
- Trên cơ sở nguồn tài liệu thành văn, các nguồn tư liệu khảo cổ học và mỹ thuật hiện còn lưu trữ tại các ngôi chùa, tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và nhiều pho tượng được tạc có gắn với dấu ấn âm nhạc trong nhiều ngôi chùa cổ Việt Nam – là minh chứng sống động khẳng định âm nhạc Phật giáo Việt Nam đã có đời sống dài lâu gắn với ngôi chùa Việt. Nhiều khả năng âm nhạc nghi lễ Phật giáo đã từng được sử dụng trong cung đình dưới thời Lý – Trần hoặc có sự tham gia của cung đình trong định chế âm nhạc nghi lễ Phật giáo từ thời kỳ này. Di sản văn hóa độc đáo này cần được chú trọng, đánh thức và bảo tồn, phát triển trong đời sống văn hóa Phật giáo nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung hôm nay và mai sau. Di sản âm nhạc Phật giáo Việt Nam cần được UNESCO ghi danh và công nhận là di sản văn hóa đại diện của nhân loại để không chỉ giáo hội mà Nhà nước và tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục liên hiệp quốc hỗ trợ ghi danh, bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật độc đáo này.
Tại sao cần công nhận di sản âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam?
- Âm nhạc nói riêng, nghệ thuật nói chung không chỉ là một hình thái ý thức mang tính lịch sử, sinh ra để phục vụ nhu cầu giải trí hoặc thực hiện chức năng phương tiện thuần túy, mà trên hết, nó là sự trưng cất đỉnh cao, phản ánh tư tưởng, bản lĩnh trí tuệ của một dân tộc, ở đây là thông qua giáo đoàn Phật giáo Việt Nam, với bề dày hàng nghìn năm lịch sử để cấu thành nên bản sắc của một nền văn hóa cụ thể. Ở những nước có nền văn hóa lâu đời như Ấn Độ, Trung Quốc, các quốc gia Tây Á, Bắc Á, thậm chí là những tộc người thiểu số có lịch sử phát triển lâu dài như Khơ me, Chăm,…thì chỉ thông qua nghe âm nhạc truyền thống của họ, chúng ta phần nào nhận diện được nền văn hóa cũng như sắc thái đặc trưng riêng của họ trong sự đa dạng của văn hóa quốc gia, nhân loại.
- Âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam, mặc dù sinh ra trên nền tảng của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam nhưng đã thể hiện được đặc trưng riêng gắn với triết lý và tập quán tu tập của tôn giáo này. Có thể nói, âm nhạc Phật giáo, sinh ra để thực hiện chức năng nghi lễ, nhưng vô hình trung, đã đóng góp vào kho tàng văn hóa Việt Nam một di sản với sắc thái đáng chú ý. Chỉ nhìn vào âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam, người ta có thể nhận diện phần nào lịch sử, trí tuệ và những đóng góp của tăng đoàn cũng như giới trí thức Phật giáo Việt Nam cho văn hóa dân tộc và cho văn hóa Phật giáo thế giới. Chúng ta có quyền tự hào rằng, âm nhạc nghi lễ Phật giáo của chúng ta là một giá trị độc đáo so với nền âm nhạc Phật giáo ở nhiều quốc gia trong khu vực. Những hình thức Tán, Tụng cổ xưa còn lưu truyền đến ngày hôm nay đã thể hiện được những giá trị độc đáo với hình thức, cấu trúc tương đối ổn định, có quy luật của một thể loại âm nhạc chuyên nghiệp bác học.
- Âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam phong phú, đa dạng; giữa miền Bắc, Trung, Nam đã có sự khác nhau, thậm chí có sự khác nhau ngay trong từng tiểu vùng của từng miền. Tính địa phương, vùng miền trong âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam chính là một đặc sản nếu Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức một chương trình Liên hoan Âm nhạc nghi lễ Phật giáo toàn quốc, chúng ta sẽ nhận diện được những đặc sắc đó. Thế giới họ khá quan tâm đến những giá trị độc đáo này, bởi đây là sự trưng cất – như trên đã trình bày – với sự sáng tạo, thực hành từ hàng nghìn năm lịch sử.
- Đứng trước vấn đề hội nhập văn hóa, vấn đề nhận thức của người thực hành, chúng ta cần chủ động đưa ra chiến lược bảo tồn và phát huy những giá trị độc đáo của âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam, tránh nguy cơ lai căng, thất truyền trong thời gian rất sớm. Sẽ là một tổn thất rất lớn nền như chúng ta tự làm mất đi, hoặc lai căng, thất truyền một kho tàng âm nhạc nghi lễ Phật giáo vốn được ông cha ta dày công xây dựng trên một nghìn năm qua! Đồng thời, trước bối cảnh giao lưu và hợp tác quốc tế hiện nay, âm nhạc Phật giáo nói chung sẽ là một kênh rất quan trọng để chúng ta khẳng định được bản lĩnh trí tuệ và bề dày lịch sử văn hóa Phật giáo và dân tộc Việt Nam trước thế giới khi chúng ta sử dụng di sản này trong quá trình giao lưu, đối thoại văn hóa, đặc biệt là các sự kiện lớn như Đại lễ Vesack thế giới.
- UNESCO là một tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc; Việt Nam đã có nhiều di sản được Cơ quan này công nhận. Việc UNESCO công nhận sẽ thuật lợi cho chúng ta trong việc hoạch định chính sách, phương pháp bảo tồn và phát huy di sản này một cách khoa học, phù hợp ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. UNESCO rất quan tâm tới giá trị di sản, tôn trọng cộng đồng sản sinh và thực hành nó trong đời sống hằng ngày. Vì thế, để tránh tính trạng di sản âm nhạc Phật giáo bị thất truyền, lai căng thì chúng ta cần dựa vào một tổ chức với kinh nghiệm theo chuẩn quốc tế thực hiện công việc ghi nhận và tôn vinh đối với di sản âm nhạc nghi lễ cổ truyền của chúng ta.
- Thông qua đó, cũng là để âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam cần được bảo tồn, bảo vệ và phát huy bởi Chính phủ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và một số cơ quan chuyên trách khác; việc sử dụng âm nhạc Phật giáo hôm nay và mai sau cần được định hướng bởi các cơ quan quản lý và các chuyên gia từ Trung ương tới địa phương để âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam ở mỗi vùng miền sẽ phát huy được sắc thái riêng của mình, như một mạch nguồn trong trẻo chảy mãi trong dòng chảy của văn hóa Việt Nam. Ngược lại, nguy cơ lai căng, thất truyền, “râu ông nọ cắm cằm bàn kia” (bản sắc Bắc – Trung – Nam lẫn lộn)”, người ta không phân biệt được truyền thống của nhau – là một tổn thất rất lớn mà chúng ta cần phải chú trọng ngay từ hôm nay. Chính vì thế, âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam cần được công nhận ở cấp độ quốc gia, thế giới để chúng ta nhận diện, nhận thức sâu sắc hơn di sản văn hóa phi vật thể độc đáo này và trách nhiệm của chúng ta khi thực hành, bảo tồn và phát triển cho các thế hệ con cháu chúng ta mai sau.
Những hoạt động cụ thể cần làm hiện nay là gì?
- Chúng ta cần tổ chức những cuộc hội thảo chuyên sâu về nghệ thuật Phật giáo, thậm chí là riêng lĩnh vực âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam. Đồng thời chúng ta cần phải có phương án triển khai ngay hoạt động KIỂM KÊ VỐN DI SẢN ÂM NHẠC NGHI LỄ PHẬT GIÁO VIỆT NAM nhằm nhận diện, đánh giá lại diện mạo và thực trạng âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam trên phạm vi cả nước. Như vậy, ở đây chúng ta sẽ cần chính sách, cần thiết chế riêng để kiểm kê, bảo tồn và duy trì loại hình di sản này một cách chuyên nghiệp.
- Tiến tới, chúng ta sẽ tổ chức hội thảo quốc tế về âm nhạc Phật giáo nói chung, bao gồm cả âm nhạc nghi lễ và các ca khúc viết về Phật giáo. Để, thông qua đó, chúng ta nhìn nhận và khẳng định mình, cũng là để học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong bảo tồn và phát huy các giá trị nghệ thuật âm nhạc cũng như di sản văn hóa nghệ thuật Phật giáo.
- Thiết nghĩ, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội, hoặc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam cần có một trung tâm nghiên cứu và bảo tồn nghệ thuật Phật giáo Việt Nam một cách chuyên nghiệp, có nguyên tắc và nghiêm túc thật; có như thế chúng ta mới khẳng định được chúng ta, là cơ sở để các nền Phật giáo khác “đo” được chúng ta.
Đại đức, TS. Thích Nguyên Toàn tham gia tham luận nội dung về hội thảo nghi lễ Phật giáo toàn quốc
Tựu chung lại, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần:
- Một là, thành lập Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn Di sản Nghệ thuật Phật giáo Việt Nam, trong đó có âm nhạc. Tập hợp một cách công tâm các nhà chuyên môn, các chuyên gia để thực hiện bảo tồn và phát huy những di sản nghệ thuật Phật giáo.
- Hai là, tổ chúc tổng kiểm kê vốn di sản nghệ thuật Phật giáo Việt Nam, trong đó có âm nhạc nghi lễ Phật giáo. Ở đây, chúng có thể tập hợp toàn bộ các tư liệu thành văn, tư liệu khảo cổ và mỹ thuật liên quan đến âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam ở trong và ngoài nước.
- Ba là, cho tổ chức các cuộc hội thảo chuyên sâu về âm nhạc nghi lễ Phật giáo, nghệ thuật Phật giáo ở cấp Học viện, Ban Văn hóa, Tạp chí, hoặc ở cấp quốc tế về vấn đề chuyên sâu này.
- Bốn là, đưa âm nhạc nghi lễ Phật giáo Việt Nam vào giảng dạy trong các trường trung cấp, học viện Phật giáo; mỗi trường Phật học ở khu vực, căn cứ vào tính vùng miền và tông phái mà đưa âm nhạc khu vực đó vào giang dạy cho Tăng – Ni sinh. Chỉ có lực lượng tri thức này mới có thể tham gia một phần tích cực vào quá trình bảo tồn và phát huy loại hình di sản độc đáo này.
- Năm là, đưa âm nhạc Phật giáo cùng với âm nhạc truyền thống dân tộc vào giới thiệu trong các kỳ đại lễ Vesak, đặc biệt là các kỳ lễ được tổ chức tại Việt Nam.
- Ngoài ra, đây là vấn đề liên quan tới văn hóa Việt Nam nói chung nên Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần có sự phổ hợp với các Bộ, Ban, Ngành liên quan trực thuộc chính phủ để, thông qua bảo tồn văn hóa Phật giáo, Đảng, Nhà nước và Chính phủ ta bảo tồn và phát triển tinh hoa nền văn hóa truyền thống Việt Nam./.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tác giả: Đại đức, TS. Thích Nguyên Toàn; Uỷ viên dự khuyết HĐTSTƯ GHPGVN, Trưởng ban Trị sự, Trưởng ban Ban Tăng sự, Trưởng ban Ban Kinh tế Tài chính GHPGVN tỉnh Hà Giang, Giảng viên sau Đại học Viện Trần Nhân Tông – Đại học Quốc Gia Hà Nội, Giảng viên Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội, Trụ trì chùa Thiên Ân – tỉnh Hà Giang.